Đối với chị em trong độ tuổi sinh sản, các cơn đau bụng dưới bên trái ở nữ có thể là dấu hiệu cảnh báo những bệnh lý như: 3.2.1. Sảy thai. Có kèm theo các biểu hiện chảy máu âm đạo, kèm cơn đau dai dẳng, đau âm ỉ bụng dưới bên trái. 3.2.2. Mang thai ngoài tử cung
U nang nhầy của môi. U nang nhầy của môi là một thương tổn niêm mạc gây ra do sang chấn, hay gặp ở niêm mạc môi dưới. Ngoài ra, thương tổn có thể ở các vị trí khác như sàn miệng, lợi, niêm mạc má, lưỡi. Biểu hiện lâm sàng của u nang nhầy là nốt hình mái vòm, trong
U máu dưới da: A. Chủ yếu do tĩnh mạch trở thành xơ, hang . B. Không có sự ứ đọnh máu . C. Không tạo thành sỏi . hỏi trước khi xem đáp án. ADSENSE / 1. Lời giải: Báo sai. Câu hỏi này thuộc ngân hàng trắc nghiệm dưới đây, bấm vào Xem chi tiết để làm toàn bài
Dưới đây là 8 dấu hiệu cảnh báo ung thư ở phụ nữ: Đầy hơi, chướng bụng Phụ nữ thường dễ bị đầy hơi một cách tự nhiên và triệu chứng này sẽ tự biến mất sau 1 - 2 tuần. Nhưng nếu tình trạng chướng bụng không thuyên giảm theo thời gian, nhất là khi có giảm cân hay chảy máu bất thường đi kèm thì bạn cần khám bác sĩ ngay.
Chiết xuất lá ô liu từ Olivé - hiệu quả trên người bệnh đái tháo đường và mỡ máu. Khoa học | 08/01/2022 lúc 23:44PM Nghiêm cấm hành vi sao chép dưới mọi hình thức. Gọi đến Hotline: 0938559501 Đăng ký |
Read Chương 119 from the story [ĐM - Đang edit] Mỗi ngày nhân vật chính hộc máu ba lần by Arisassan with 67 reads. đammỹ, 1x1, xuyênthư. Hàng nghìn năm qua Thượng đế tọa trấn ở đông thiên, mỗi ngày đều dùng thiên tài địa bảo tốt nhất Thiên giới để chăm sóc bồi bổ cho cơ
Nhiều loài động vật có mô biểu bì gấp lại thành nhiều nếp, dưới mỗi nếp gấp có nhiều mạch máu, đó là đặc điểm thích nghi cho A. trao đổi khí qua hô hấp.
r3iGs. U máu dưới da là tình trạng bẩm sinh hoặc mắc phải xuất hiện tại nhiều vị trí trên cơ thể, chủ yếu tập trung ở vùng đầu mặt cổ. Hiện nay các dạng u máu dưới da thường gặp được phân loại theo đặc điểm hình thái và bản chất giải phẫu của khối u. Hãy cùng Docosan tìm hiểu về tình trạng này trong bài viết sau đây nhé! Tóm tắt nội dung1 U máu dưới da là bệnh gì?2 Phân loại các dạng u máu dưới da thường Theo giải phẫu U máu dưới da dạng mao U máu dưới da dạng Theo đặc điểm lâm U máu nông dưới U máu sâu dưới U máu dưới da phẳng U máu dưới da gồ u máu củ Phình mạch dạng U máu trong xương Một số thể u máu đặc biệt khác U máu dưới da hay u mạch máu là một khối u tế bào lành tính thường gặp ở trẻ em, hình thành do sự tăng sinh của các mạch máu gồm động mạch, tĩnh mạch và mao mạch. Tỷ lệ gặp u máu dưới da lần lượt là gần 60% xuất hiện khi ở trẻ sơ sinh, 40% trong tháng đầu và 30% ở trẻ đẻ non có cân nặng sau sinh dưới 1,8kg. Theo thống kê, có 60% u máu xuất hiện ở vùng đầu, mặt và cổ và một phần nhỏ có u máu dị dạng xuất hiện trong nội tạng. Phân loại các dạng u máu dưới da thường gặp Theo giải phẫu học U máu dưới da dạng mao mạch Đây dạng u máu dưới hay gặp nhất, chiếm khoảng 60% các trường hợp. Ở bệnh nhân này, các mao mạch tăng sinh và giãn da nhưng không có sự tăng sinh của các tế bào nội mô và cơ trơn. U máu mao mạch chứa các mao mạch ở nhiều giai đoạn phát triển khác nhau, gồm có mao mạch rỗng, cũng có mao mạch đầy, rộng và không đồng đều như các mao mạch bình thường. U máu dưới da dạng hang Dạng u máu này chiếm khoảng 30% các trường hợp mắc bệnh. U máu hang có tổ chức giống như những mô liên kết của cơ quan, gồm những hốc hang nhỏ, đầy máu, thông với nhau và thường có vỏ xơ bọc xung quanh, có thể gây chèn ép lên các tổ chức ở phía dưới. Đôi khi những hốc máu trong u máu hang được ngăn cách nhau bởi các vách collagen có nhiều mô liên kết sợi và các chất chun co giãn. Trong u máu hang, thì các mao mạch giãn rất rộng và chức nhiều máu. U máu dạng hang gặp ở khoảng 30% các bệnh nhân Theo đặc điểm lâm sàng U máu nông dưới da Loại u máu dưới da ở phần sát mô biểu bì, có hình thái là u chứa những mao mạch giãn rộng, tăng sinh, ứ máu đi kèm với tổ chức dạng hang. U máu nông dưới da xuất hiện và tiến triển chậm, thường chỉ được phát hiện khi đã có kích thước lớn gây khó chịu. Loại u máu này có thể đạt tới kích thước lớn như quả chanh, xuất hiện đơn lẻ hoặc thành chụm có 3 – 4 u rải rác ở mặt, vùng cổ. Phần da phía trên u máu nông có thể có màu bình thường hoặc tím nhạt, có tĩnh mạch nông chạy phía trên, u phình to ra khi gắng sức hoặc khi cúi xuống. U máu sâu dưới da Là loại u máu dưới da sâu ở phần mềm, dưới luôn lớp mỡ, có thể tăng sinh đến thâm nhiễm cơ và các cơ quan nằm sâu như tuyến nước bọt, dây thần kinh. Biểu hiện u máu sâu khá giống với u máu nông dưới da nhưng da phía trên thường bị thâm nhiễm nhiều hơn, có tĩnh mạch chạy ở trên khối u, vùng xung quanh da hơi nhăn, màu hồng hoặc tím. U ít khi gồ lên khỏi da, chủ yếu lan sâ, nhưng cũng sưng to hơn khi cúi đầu hoặc lao động nặng, và bóp xẹp. U máu dưới da phẳng U mạch máu phẳng là một nhóm bệnh bẩm sinh đi kèm với tổn thương dị dạng ở các mao mạch tại mô da. Trong đó, lòng mạch bị giãn ra và không có sự tăng sinh bất thường của các tế bào nội mô mao mạch. Biểu hiện của u máu phẳng là xuất hiện những vết sẫm màu đỏ lấm tấm trên da, có nền hồng nhạt, đỏ nhạt hoặc đỏ thẫm, không gồ lên hơn bề mặt da, co giãn da xung quanh vẫn mềm mại. Nên người bệnh chỉ thấy da khác màu và có tính chất giống như da thường. U máu dạng phẳng thường đi kèm với bất thường dị dạng mạch máu U máu dưới da gồ u máu củ U máu gồ có thể do u máu phẳng tiến triển thành dạng ác tính và lan rộng. U gồ khỏi da từ vài mm đến 1cm hoặc hơn, có màu hồng đậm như máu, đỏ tía, da phủ lên hơi nhăn, khi va chạm dễ chảy máu dẫn tới nhiễm khuẩn và mất máu nhiều. Đôi khi u máu gồ hình thành một đám rộng ở cả vùng da lớn ở mặt hoặc dọc cổ. Loại u máu này có thể phát triển và hóa thành ung thư theo tuổi hoặc tự ngừng phát triển, thu nhỏ và teo hết hẳn. Phình mạch dạng rối Dạng u máu dưới da này được hình thành từ u máu gồ tự phát hoặc dưới ảnh hưởng của sự thay đổi nội tiết tố do mang thai, dùng thuốc tránh thai. Đôi khi, phình mạch rối là một thể trung gian giữa u máu và tình trạng giãn phình động – tĩnh mạch. Phình mạch rối gồm những mao mạch giãn rộng, kích thước không đồng đều, gồ to, có nhịp mạch đập và không bóp xẹp được. U máu trong xương hàm Là loại u máu dưới da nguy hiểm nhất, có thể dẫn đến mất lượng nhiều mà tử vong. Thường u máu trong xương hàm là u niêm mạc miệng hoặc u máu nướu xâm lấn ác tính gây phá hủy dần xương hàm và vỡ mạch máu gây chảy ồ ạt. Hiếm gặp hơn, u máu có thể phát triển từ trung tâm xương hàm, phá hủy dần lợi và răng, và gây chảy máu ra bên ngoài có thể cầm máu ngay lập tức. U máu trong xương hàm có thể gây mất máu nhiều đến tử vong Một số thể u máu đặc biệt khác U máu kết hợp Trong các thể bệnh trên, có nhiều loại u máu có thể cùng phát triển và kết hợp với nhau như u máu phẳng xen kẽ u máu gồ, u máu nông dưới da xen kẽ với u máu sâu dưới da,…U máu rải rác Hội chứng Rendu và Osler Có tính chất di truyền theo gia đình, đặc trưng bởi những u máu dưới da rải rác và có trong niêm mạc, màu sẫm, có chấm đen, da xanh xao, chảy máu và giãn mạch. Loại u máu này khu trú ở hai lá phổi có thể gây rò động – tĩnh mạch. Thường gặp là u máu hay khu trú ở má, cổ, niêm mạc miệng, môi, lưỡi, sàn miệng, hàm ếch, niêm mạc mũi,… dễ gây chảy máu khó cầm. U máu dưới da có thể thoái triển hoặc phát triển mạnh trong cuộc sống của người bệnh, và gây nhiều biến chứng khó lường. Vì vậy, khi phát hiện có u máu dưới da, bạn nên kịp thời đến sớm để khám và làm xét nghiệm tại các bệnh viện lớn uy tín để được chẩn đoán chính xác, theo dõi và có liệu pháp điều trị hiệu quả nhất. Bài viết được tham khảo từ bác sĩ và các nguồn tư liệu đáng tin cậy trong và ngoài nước. Tuy nhiên, Docosan Team khuyến khích bệnh nhân hãy tìm và đặt lịch hẹn với bác sĩ có chuyên môn để điều trị. Để được tư vấn trực tiếp, bạn đọc vui lòng liên hệ hotline 1900 638 082 hoặc CHAT để được hướng dẫn đặt hẹn. Nguồn tham khảo
U nang nhầy của môi là tình trạng niêm mạc môi bị tổn thương gây ra do sang chấn, hay gặp ở niêm mạc môi dưới. Tuy nhiên, tổn thương u nang nhầy cũng có thể xảy ra ở các vị trí khác như sàn miệng, lợi, niêm mạc má, lưỡi. 1. U nang nhầy ở môi có biểu hiện như thế nào? Đặc điểm của u nang nhầy là nốt hình mái vòm, trong suốt, có chứa đầy chất nhầy bên trong, nốt có đường kính từ 1 - 15mm, chỉ có một tổn thương đơn độc hoặc nhiều tổn tổn thương nằm ở bề mặt có màu hơi xanh do các mao mạch phía dưới, trong khi đó, các tổn thương ở sâu có màu đồng nhất với niêm mạc môi. Tổn thương có thể bị chảy máu ở bên trong tạo ra màu đỏ tươi, thỉnh thoảng nó trông giống với u mạch máu. Đôi khi, bề mặt tổn thương trở nên trắng, thô ráp, bong vảy do các sang chấn lặp đi lặp lại nhiều nang nhầy nông thường chỉ tồn tại trong vài ngày hoặc vài tuần rồi vỡ ra, thường là trong lúc nhai thức ăn, rồi tự lành. Với các tổn thương tái đi tái lại nhiều lần sẽ tạo thành cục bướu ở mặt trong của niêm mạc nang nhầy không đau nhưng lại khiến cho bạn cảm thấy khó chịu, vướng víu do khối bất thường ở môi. U nang nhầy ở môi gây ra cảm giác khó chịu, vướng víu 2. Nguyên nhân gây tổn thương u nang nhầy ở môi Nguyên nhân chính gây u nang nhầy của môi thường là do các sang chấn ở miệng làm tổn thương các ống bài tiết của tuyến nước bọt nằm ở trong niêm mạc của môi. Trong đó, nguyên nhân hay gặp nhất là do răng cắn vào niêm mạc nhiên, bạn có thể không nhận thức được động tác này. Sau đó, các chất nhầy sẽ từ ống tuyến nước bọt rò rỉ ra ngoài, chảy vào mô liên kết xung quanh và hình thành các u nang khi đó, u nang nhầy sàn miệng thường do tình trạng tắc nghẽn ống tuyến dẫn nhầy hoặc do chấn thương làm tổn thương tuyến và dịch nhầy thoát đọng ở các mô xung quanh. Nang nhầy sàn miệng thường xảy ra ở niêm mạc má, lưỡi, khẩu cái, sàn miệng ít gặp hơn. Nang ở nông trông giống mụn giộp 1 – 2 mm.Ngoài ra, còn có một dạng nang nhầy khác được gọi là nang nhái. Thuật ngữ “nang nhái” được dùng để chỉ những nang nhầy có kích thước tương đối lớn và vỏ nang nhìn trong suốt giống với bụng con nhái nên được gọi như nhái thường xuất hiện ở sàn miệng một bên, nó hình thành do tắc nghẽn tuyến nước bọt dưới lưỡi hoặc tuyến nước bọt phụ ở sàn miệng. Nang nhái thể nông kích thước từ 3 – 5cm đường kính, với thể sâu nó có thể lan phồng vùng dưới hàm. 3. Chẩn đoán u nang nhầy ở môi như thế nào? Việc chẩn đoán u nang nhầy của môi chủ yếu dựa vào biểu hiện lâm sàng. Bác sĩ có thể làm xét nghiệm mô bệnh học để loại trừ các bệnh khác. 4. Điều trị u nang nhầy ở môi như thế nào? U nang nhầy của môi có thể tự lành, không cần điều trị đặc hiệu. Tuy nhiên, với các tổn thương có đặc điểm chắc, sâu, tái đi tái lại nhiều lần, có thể cần phải loại bỏ u nang nhầy bằng phẫu thuật, áp lạnh cryosurgery, laser xâm nhập. U nang nhầy sẽ không tái phát nếu các tuyến nước bọt nhỏ ở vùng tiếp nối được loại theo dõi trang web thường xuyên để cập nhật những thông tin hữu ích khác. Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. Bài viết tham khảo XEM THÊM Siêu âm u nang buồng trứng Hóa trị điều trị ung thư não Tràn dịch dưỡng trấp màng phổi ở ca lâm sàng u lympho không Hodgkin tế bào B lớn Dịch vụ từ Vinmec
U máu ở môi dưới là một vị trí có thể gặp khi bị u máu vùng đầu mặt. Tình trạng này thường gặp nhất là ở trẻ nhỏ, có thể thoái triển sau một thời gian mà không cần can thiệp. Tuy nhiên, với một số trường hợp thì u máu vẫn cần được điều trị. U máu là một loại u lành tính và không phải ung thư được tạo bởi việc các tế bào nội mô sinh sản nhanh chóng một cách bất thường. Bệnh thường gặp nhất ở lứa tuổi nhũ nhi tức là trẻ dưới 1 tuổi. U máu có thể hình thành tại nhiều nơi trên cơ thể, trong đó hay gặp hơn cả là vùng đầu mặt cổ chiếm tới 60% tổng số các trường hợp. U máu môi dưới là một dạng u máu vùng đầu mặt, nhưng vị trí xuất hiện là ở môi dưới. Sau khi xuất hiện, u máu ở môi dưới có thể lớn dần lên, từ một vết đỏ nhỏ giống như nốt ruồi son, rồi nó có thể phát triển trở thành một mảng màu hồng đậm hay có thể gồ lên thành khối u. U thường lớn dần theo phát triển cơ thể trẻ em. U máu ở vùng gần niêm mạc như môi thường phát triển rất nhanh. Hiện nay, người ta vẫn chưa thực sự hiểu rõ về nguyên nhân có thể gây ra u máu một số người. Cho nên cũng chưa có biện pháp nào có thể phòng ngừa được u máu. U máu ở môi dưới có nguy hiểm không? Theo nhiều nghiên cứu đánh giá thì người ta nhận thấy rằng u máu là một tình trạng lành tính. Thường không gây nguy hiểm tới tính mạng người mắc bệnh và nó cũng có thể tự thoái triển mà không cần bất kỳ can thiệp y tế nào. Thông thường, u máu thường sẽ đạt kích thước lớn nhất vào khoảng khi trẻ ở tháng thứ 6 đến 10 và bắt đầu quá trình thoái triển tự nhiên sau 1 năm. U máu có thể biến mất hoàn toàn hay một phần khi trẻ từ 5 đến 8 tuổi. Tuy nhiên, trong một số ít các trường hợp u máu ở môi dưới cũng có thể không thoái triển và gây ra một số biến chứng như Nguy cơ chảy máu, ảnh hưởng tới sức khoẻ của trẻ. Khó khăn trong việc ăn uống và nói chuyện. Xâm lấn tới vùng khác của miệng. Mặc dù những biến chứng này rất hiếm xảy ra nhưng cần phải được theo dõi và điều trị. Phải làm gì khi bị u máu ở môi dưới? Khi mắc u máu môi dưới ở trẻ nhũ nhi thì việc theo dõi tiến triển của bệnh và không can thiệp điều trị khi không cần thiết là biện pháp tốt nhất cho trẻ. Bởi vì, với trẻ thì khả năng thoái triển rất thường thấy. Không chỉ vậy mà còn cân nhắc thận trọng giữa hiệu quả mang lại của những can thiệp và tác hại lâu dài cho cuộc sống sau này của trẻ là rất cần thiết. Khi việc phẫu thuật chưa thực sự cần thiết thì nó có thể có nguy cơ tái phát và tử vong do chảy nhiều máu, việc phẫu thuật các u lớn ở môi có thể cũng để lại sẹo xấu cho trẻ. Khi theo dõi trẻ cần Tiến hành thăm khám định kỳ theo hướng dẫn của bác sĩ. Không đụng chạm hay làm tổn thương khối u vì nó có thể gây chảy máu. Theo dõi những biến chứng nếu có. Khi thấy biến chứng cần đưa trẻ tới cơ sở y tế. Can thiệp phẫu thuật triệt để được chỉ định với những u ảnh hưởng tới chức năng hoặc gây biến dạng hoặc không thoái triển và ảnh hưởng nghiêm trọng tới thẩm mỹ. Khi điều trị có thể lựa chọn biện pháp điều trị nội khoa như sử dụng thuốc giúp thu nhỏ khối u máu, phẫu thuật, dùng tia laser… Tùy từng trường hợp mà có những biện pháp điều trị khác nhau, có thể cần phải kết hợp nhiều phương pháp mới mang lại hiệu quả điều trị. Tóm lại, khi bị u máu môi dưới thì biện pháp tốt nhất là thăm khám và theo dõi. Để nguyên không can thiệp có thể mang lại nhiều lợi ích bởi nó sẽ phát triển nhanh tới một giai đoạn rồi thoái triển. Việc can thiệp quá sớm khi chưa cần thiệt lại còn có thể mang lại nguy cơ gây hại cho sức khỏe của trẻ. Chính vì vậy, đừng quá lo lắng khi trẻ mắc bệnh u máu ở môi dưới, mà hãy thật kiên nhẫn chờ đợi nhé. Dịch vụ liên quan LASER XUNG DÀI – Phương pháp điều trị U mạch máu trẻ em an toàn, không để lại sẹo ĐỪNG HOANG MANG KHI TRẺ BỊ U MÁU U MÁU TRẺ EM VÀ NHỮNG BIẾN DẠNG THẨM MỸ
U máu là bệnh lý thường gặp ở trẻ em. Mặc dù đây không phải là một bệnh ác tính, bệnh sẽ tự khỏi khi trẻ lớn, các di chứng của bệnh liên quan chủ yếu đến vấn đề thẩm mỹ… Hiện nay, đối với phần lớn các thầy thuốc thì vấn đề chuẩn đoán và điều trị u máu thực sự còn lúng túng. Sự chuẩn đoán nhầm lẫn giữa các bệnh u máu và các dị dạng mạch máu bẩm sinh ở trẻ em làm tăng tỉ lệ di chứng cho điều trị. Các hiểu biết mới về chuẩn đoán và điều trị bệnh u máu giúp các thầy thuốc tránh được những biến chứng do bệnh hay do điều trị gây ra. U máu trẻ em là một bệnh thường gặp, chiếm tỉ lệ khoảng 10% ở trẻ sơ sinh. Bệnh được hình thành ngay sau khi đứa trẻ ra đời, đó là kết quả của quá trình tăng sinh tạm thời của các tế bào nội mạch. U máu được phát ngay trong giai đoạn sơ sinh và luôn diễn ra ba giai đoạn phát triển, ổn định và thoái triển. Do đặc điểm lâm sàng không rõ ràng của bệnh u máu, nên việc chuẩn đoán phân biệt với các dạng bệnh lý của mạch máu khác rất khó khăn, chính vì vậy điều trị u máu cho đến nay vẫn là một vấn đề thách thức đối với nhiều bác sĩ của nhiều chuyên khoa khác nhau. Những hiểu biết cơ bản về bệnh sinh, chuẩn đoán xác định, chuẩn đoán phân biệt, tiến triển của bệnh giúp cho các bác sĩ có được hướng điều trị đúng đắn bệnh u máu, một dạng bệnh thường gặp ở trẻ em. 1. Phân loại bệnh lý mạch máu Trong một thời gian dài trước đây, các bác sĩ thường gộp chung các bệnh lý mạch máu khác nhau dưới một tên chung là u máu hay bướu máu. Sự đơn giản hóa này đã dẫn đến nhiều sai lầm trong chẩn đoán và khó khăn trong điều trị. Một loạt những di chứng do chẩn đoán sai cũng như do điều kiện chính trị không đúng hướng cũng bắt đầu từ sự không thống nhất về thuật ngữ và sự hiểu biết về bệnh nguyên của các bệnh lý mạch máu. Những nghiên cứu hiện đại gần đây về bệnh lý mạch máu đã đưa những khái niệm và thuật ngữ rõ ràng hơn cho các bệnh lý mạch máu. Theo Hiệp hội quốc tế nghiên cứu về bệnh lý mạch máu ISVA 1986, nhóm các bệnh lý mạch máu, bao gồm các di dạng dạng mạch máu có tính chất bẩm sinh và u máu, một dạng bệnh lý tăng sinh tế bào nội mạch và chỉ xuất hiện sau khi sinh. Do bệnh nguyên của hai nhóm bệnh lý này khác nhau, nên việc điều trị cho từng nhóm bệnh cơ bản là khác nhau. Các bệnh dị dạng mạch máu là nhóm bệnh có sự phát triển bất thường của tất cả các loại mạch máu mao mạch, động mạch, tĩnh mạch, bạch huyết trong thời kỳ bào thai. Các bệnh lý này có thể phát hiện ngay khi đứa trẻ sinh và phát triển tương ứng cùng với đứa trẻ đó. Các dạng bệnh lý được gọi tên theo thanh phần mạch bị tổn thương chính, như dị dạng mao mạch, dị dạng động mạch, dị dạng tĩnh mạch… Cũng tồn tại các thể dị dạng phối hợp nhiều thành phần như dị dạng động – tĩnh mạch, dị dạng mao – động mạch… Đây chính là những thể khó khăn trong việc chuẩn đoán và điều trị. U máu là nhóm bệnh lý mạch máu được đặc trưng bởi sự tăng sinh quá mức của tế bào nội mạch. U máu trẻ em là một dạng u máu thường gặp nhất trong nhóm bệnh lý này, thường phát hiện sau khi sinh và phát triển qua ba giai đoạn đặc trưng giai đoạn tiến triển từ khi sinh đến 8 – 12 tháng, giai đoạn ổn định trong 1 -1,5 năm, giai đoạn thoái triển đến khi đứa trẻ 8 -10 tuổi. Ngoài ra các dạng u máu như u máu bẩm sinh, u máu nội mạch… 2. Bệnh u máu trẻ em U máu là bệnh lý thường gặp ở trẻ sơ sinh, với tỉ lệ từ 10 – 12%. Bệnh u máu có đặc điểm là chỉ xuất hiện vào tuần lễ thứ nhất hay thứ tư sau khi sinh. Bệnh u máu gặp ở trẻ gái nhiều gấp đôi so với trẻ trai. Tỉ lệ bệnh ở trẻ da trắng cao gấp 3 lần so với trẻ da màu và bệnh không có tính di truyền. Bệnh u máu ở trẻ em được thể hiện dưới ba dạng lâm sàng u máu trong da, dưới da và hỗn hợp. U máu trong da thể hiện dưới dạng một đám màu đỏ tươi nổi hờ trên da bình thường, ranh giới u không rõ ràng. U máu dưới da ngược lại chỉ là một vùng nổi gờ có màu sắc đỏ nhạt, nằm phía dưới của vùng da bình thường hay da xanh nhợt. U máu thể hỗn hợp, trong da và dưới da, là loại u hay gặp nhất và chiếm tỉ lệ 75% các loại u máu. U được biểu hiện bởi một vùng đỏ nổi gờ trên một vùng da lành, sau đó vùng dưới da dần phát triển rộng xung quanh vùng u máu trong da. Thể u máu hỗn hợp thường chỉ xuất hiện ở một vài vùng tổn thương, vị trí hay gặp là ở vùng đầu, mặt , cổ. U máu ở trẻ em Ảnh minh họa Tiến triển của bệnh u máu bao giờ cũng trải qua 3 giai đoạn và chắc chắn sẽ tự khỏi khi đứa trẻ lớn. U máu thường xuất hiện vào tuần đầu tiên sau khi đứa trẻ ra đời, hình thái lâm sàng rất hay thay đổi, có thể là một đám giãn mạch mầu xanh xám, có khi là sẩn đỏ hay dát màu xanh. Tổn thương ban đầu có thể dễ lẫn với các u sắc tố và thường được bỏ qua trong tuần lễ đầu tiên. Nhưng sau đó u máu diễn biến nhanh chóng và biểu hiện rõ nét trên lâm sàng. Giai đoạn tiến triển của u máu kéo dài từ 6 – 8 tháng tùy theo thể lâm sàng. Với thể u máu trong da, thời gian phát triển có thể kéo dài từ 3 – 6 tháng, riêng thể u máu dưới da, thời gian này dài hơn, từ 8 – 10 tháng. Trong giai đoạn này, u máu tăng cả về thể tích và diện tích của khối u. Khối u trở nên đỏ và to dần theo thời gian, ảnh hưởng nhiều đến vấn đề thẩm mỹ. Nếu khối u nằm ở các vị trí như mi mắt, môi, mũi thì ngoài vấn đề thẩm mỹ còn có những rối loạn về chức năng của đứa trẻ. Nếu không điều trị đúng, các rối loạn do khối u gây ra có thể dẫn tới những rối loạn về chức năng khó phục hồi về sau này. Từ tháng 8 trở đi, u máu sẽ không thay đổi về thể tích và màu sắc, khối u sẽ ổn định như vậy cho tới tháng 18 – 20. Đây là giai đoạn ổn định của u máu, giai đoạn này hầu như không ảnh hưởng dưới tác dụng của điều trị nội khoa. Sang giai đoạn thoái triển, khối u nhỏ dần, màu sắc trở nên nhạt màu. Kích thước của khối u máu càng nhỏ khi trẻ lớn, đến 6 – 8 tuổi, ảnh hưởng duy nhất của u máu chỉ là vấn đề thẩm mỹ và không có những rối loạn chức năng đáng kể nào. 3. Biến chứng của bệnh u máu trẻ em Trong quá trình phát triển của u máu từ những tuần đầu tiên của trẻ sơ sinh cho đến lúc 8 – 10 tuổi, các biến chứng có thể xảy ra gồm hai loại chính, biến chứng do chính u máu gây ra và biến chứng liên quan đến việc điều trị. Biến chứng do sự phát triển của u máu loét và hoại tử vùng trung tâm khối u, bội nhiễm thứ phát sau khi có hoại tử khối u những biến chứng hay gặp trong quá trình phát triển của khối u. Chảy máu cũng là một biến chứng không hiếm gặp khi khối u phát triển nhanh về thể tích. Các biến chứng toàn thân như suy tim hay tắc mạch hiếm khi xảy ra với các thể u máu trong da. Các u máu nằm ở một số vùng như mi mắt, mũi, tai, miệng, hậu môn, … sẽ gây ra những rối loạn nặng nề về chức năng cho đứa trẻ. U máu ở mi mắt có thể dẫn đến nhược thị, lác hay rối loạn thị giác của đứa trẻ ngay từ những tuần đầu tiên. Các biến chứng liên quan tới chức năng chỉ có thể giải quyết bằng điều trị phẫu thuật. Biến chứng do điều trị hoại tử vùng da trung tâm của u máu do các phương pháp điều trị như xạ trị, áp lạnh hay tiêm xơ. Loét bề mặt u máu hay bội nhiễm toàn bộ khối u thường xảy ra sau khi có tình trạng hoại tử khối u máu. Một trong những biến chứng thường gặp sau khi điều trị bằng xạ trị là tình trạng viêm hoại tử tái phát ở vùng chiếu xạ. Những rối loạn về sự phát triển của các vùng mô phía dưới u máu được chiếu xạ không hiếm gặp hiện nay như thiểu dưỡng da và tổ chức dưới da, thiểu dưỡng xương hàm, lép nửa mặt, thoái hóa khớp gối, ngắn chi, lệch vẹo cột sống,… 4. Điều trị u máu Nguyên tắc điều trị u máu ở trẻ em là cần chẩn đoán chính xác bệnh u máu, đồng thời cần phân biệt với các thể bệnh lý u máu khác như dị dạng mạch máu để việc điều trị không bị lẫn lộn và không kết quả. Các phương pháp điều trị kinh điển như xạ trị, tiêm xơ, áp lạnh, … hầu như không có kết quả trong giai đoạn u đang phát triển, càng không có ý nghĩa trong các giai đoạn phát triển ổn định và thoái triển của khối u. Ngoài ra các phương pháp này còn để lại những di chứng nặng nề không những về mặt thẩm mỹ, mà còn để lại nhiều rối loạn chức năng nghiêm trọng. Khi đã chuẩn đoán là u máu trẻ em, điều trị duy nhất được coi là thích hợp là điều trị nội khoa. Liệu pháp corticoid được coi là có hiệu quả với tất cả các thể u máu trẻ em. Trong trường hợp khối u ít đáp ứng với corticoid đường uống, có thể dùng kết hợp tiêm corticoid trực tiếp vào khối u hay dùng crème có chứa corticoid bôi ngoài da. Nếu khối u nằm ở những vùng có rối loạn về chức năng như mi mắt, mũi, … cần đặt vấn đề phẫu thuật sau khi đã điều trị nội khoa. Phẫu thuật tạo hình nhằm mục đích cắt bỏ khối u và phục hồi lại chức năng giải phẫu của các cơ quan bị tổn thương. Cần nhớ rằng u máu trẻ em có thể tự khỏi khi trẻ lớn, những ảnh hưởng duy nhất của u máu sẽ chỉ liên quan tới vấn đề thẩm mỹ. Chính vì vậy có thể tiến hành phẫu thuật tạo hình để giải quyết các di chứng về thẩm mỹ khi đứa trẻ đã lớn. Bệnh u máu trẻ em cho đến nay vẫn hay bị chẩn đoán nhầm với các dạng bệnh lý mạch máu khác như dị dạng mạch máu, chính vì vậy việc điều trị thường gặp nhiều khó khăn và di chứng do điều trị không đúng thường để lại những hậu quả nặng nề cả về thẩm mỹ và chức năng. Hai điểm cần lưu ý trong khi điều trị u máu ở trẻ em là bản thân u máu đáp ứng tốt với liệu pháp corticid vầ có thể tự khỏi khi trẻ lớn, không được điều trị u máu bằng các phương pháp xạ trị hay tiêm xơ. Đây là những sai lầm thường gặp trong quá trình điều trị u máu trẻ em ở phần lớn các bác sĩ. Thiết Sơn – Bộ môn phẫu thuật tạo hình, Đại học Y Hà Nội TTVN số 9 Lượt xem
Máu có trong nước tiểu là một triệu chứng hay gặp trong nhiều bệnh lý phổ biến, do nhiều nguyên nhân khác nhau. Máu trong nước tiểu không phải là tình trạng cấp cứu, tuy nhiên nó có thể là dấu hiệu của một bệnh lý nghiêm trọng. Do đó, khi có biểu hiện đái ra máu cần đến ngay cơ sở y tế để tìm ra nguyên nhân và có biện pháp can thiệp kịp thời. Máu trong nước tiểu là một triệu chứng rõ ràng của một bệnh lý cụ thể nào đó. Bình thường nước tiểu có máu vàng nhạt và không có những phân tử lớn ở trong máu. Do một số bất thường nào đó có thể từ thận hay đường tiết niệu, mà những tế bào máu lọt qua cầu thận vào trong nước hai loại máu trong nước tiểuĐái máu đại thể Là khi máu trong nước tiểu có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Mọi người có thể phát hiện cục máu đông hoặc nhận thấy nước tiểu có màu đỏ hoặc máu vi thể Là sự xuất hiện của những phân tử có trong máu, và chỉ nhìn thấy được dưới kính hiển vi thông qua những xét nghiệm. Màu sắc nước tiểu phản ánh một số bệnh lý 2. Nguyên nhân máu trong nước tiểu Có nhiều nguyên nhân gây ra triệu chứng máu trong nước tiểu, chủ yếu do một bệnh lý cụ thể Nhiễm trùng đường tiết niệuNhiễm trùng đường tiết niệu ảnh hưởng đến thận và gây đau lưng ở hai bên hông. Nguyên nhân phổ biến của nhiễm trùng đường tiết niệu là do vi khuẩn xâm nhập vào niệu đạo, dẫn tới hiện tượng máu trong nước ra có những triệu chứng của nhiễm trùng đường tiết niệu kèm theo bao gồmCảm giác buồn tiểu ngay sau khi vừa đi hoặc rát ở niệu đạoNước tiểu đục, có mùiRất ít trường hợp nhiễm trùng tiểu có thể gây ảnh hưởng đến thận. Tuy nhiên nếu trường hợp này xảy ra, nhiễm trùng có xu hướng nghiêm trọng hơn và có thể gây ra các triệu chứng nhưĐau ở lưng, hai bên hông và vùng nôn, nônSốt và ớn lạnh Nhiễm trùng đường tiết niệu gây đau lưng 2 bên Sỏi thận và bàng quangBình thường, sỏi thận nhỏ có thể lọt xuống theo dòng nước tiểu ra ngoài và không để lại triệu chứng. Tuy nhiên, trong trường hợp sỏi lớn hơn có thể bị kẹt lại trong thận, bàng quang hoặc bị mắc kẹt ở nơi khác trong ống dẫn nước tiểu gây ra các triệu chứng nhưMáu trong nước tiểuĐau lưng dưới và hai bên hôngBuồn nôn hoặc nôn mửaĐôi khi có sốt và ớn lạnhNước tiểu đục hoặc có Tiểu máu sau gắng sứcTiểu máu sau gắng sức là một tình trạng xuất hiện máu trong nước tiểu, xảy ra sau tập thể dục hay hoạt động gắng sức với cường độ mạnh. Những người không bù nước đúng cách trong khi tập thể dục cũng có thể làm tăng nguy cơ tiểu máu. Tuy nhiên, các chuyên gia cho biết tình trạng này thường tự khỏi trong vòng 3 ngày sau đó. Nếu tình trạng máu trong nước tiểu kéo dài hơn 2 tuần thì nên đến cơ sở y tế để thăm khám. Thể dục và hoạt động gắng sức Phì đại tiền liệt tuyếnTiền liệt tuyến là một tuyến nhỏ kích thước khoảng 10-20 gram, và chỉ có ở nam giới. Tuyến tiền liệt nằm sát dưới cơ bàng quang bao quanh lấy đoạn niệu đạo chỗ nối với cổ bàng quang, có chức năng chính là sản xuất ra các chất dịch giúp cho quá trình sinh sản của nam giới. Ngoài ra, tuyến tiền liệt còn giữ độc tố, vi khuẩn, và hóa chất không để đi vào đường tiết tiền liệt phì đại có thể gây chèn ép niệu đạo dẫn tới việc đi tiểu khó khăn hơn. Lúc này, bàng quang có thể bù lại bằng cách co bóp nhiều hơn để giải phóng nước tiểu. Từ đó, có thể dẫn đến tổn thương và chảy đại tuyến tiền liệt gây ảnh hưởng đến khoảng 50% nam giới trưởng thành ở độ tuổi từ 51- 60 và khoảng 90% những người trên 80 triệu chứng của phì đại tuyến tiền liệt bao gồmTiểu nhiều lần trong ngày, đặc biệt là về ban đêm gây mất ngủ, đột ngột buồn đi tiểu, không nhịn được tiểu quá vài khó, ngắt quãng, phải rặn mới đi tiểu được, tia tiểu yếu, tiểu xong vẫn còn vài giọt nước tiểu rỉ ra làm ướt xong vẫn còn cảm giác tiểu chưa hết, không thoải cách giữa 2 lần liên tiếp đi tiểu ngắn đái đột ngột không đi tiểu được mặc dù đã rặn hết sức gây căng tức vùng bụng dưới rất khó chịu phải nhập viện trong nước tiểu Phì đại tiền liệt tuyến Đặt ống thông tiểuMột số bệnh nhân có thể gặp khó khăn trong việc đi tiểu hay đau tức bụng không tiểu được do phẫu thuật, chấn thương hoặc bệnh lý. Vì vậy, người bệnh được đặt ống thông tiểu được đặt vào bàng quang giúp lưu thông nước tiểu ra ngoài. Thông thường, ống dẫn nước tiểu sẽ được lưu lại ở bàng quang trong vài ngày hoặc vài loại ống thông tiểu đều có thể cho phép vi khuẩn xâm nhập vào niệu đạo, nếu không đảm bảo vô khuẩn sẽ dẫn đến nhiễm trùng đường tiết niệu liên quan đến ống thông nước Tổn thương thậnTiểu cầu là những cấu trúc nhỏ trong thận, có chức năng lọc và làm sạch máu. Ở những người bị viêm cầu thận, bị tổn thương không thể loại bỏ chất thải ra khỏi cơ thể. Nếu không được điều trị, viêm cầu thận có thể dẫn đến suy cầu thận cấp tính xuất hiện đột ngột và có thể gây ra những triệu chứng sauSưng mặt vào buổi sángXuất hiện máu trong nước tiểuGiảm lượng nước tiểuKhó thởHoHuyết áp cao Tổn thương thận gây tăng huyết áp Viêm cầu thận mãn tính tiến triển chậm. Trong một số trường hợp thường không có triệu chứng điển hình trong những năm đầu mắc bệnh. Những dấu hiệu và triệu chứng trong giai đoạn sau bao gồmMáu trong nước tiểuProtein trong nước tiểuSưng mặt hoặc mắt cá chânĐi tiểu đêm thường xuyênNước tiểu sủi ThuốcMột số loại thuốc sau đây có thể gây máu trong nước tiểuThuốc chống đông máu Những loại thuốc này giúp ngăn ngừa huyết khối, nhưng một số loại thuốc có thể gây ra tác dụng phụ máu trong nước tiểu như warfarin và chống viêm không steroid, hoặc NSAID Nếu lạm dụng thuốc trong thời gian dài có thể gây suy thận thận và khiến máu xuất hiện trong nước tiểu. Tuy nhiên, thuốc chống viêm không steroid hoặc NSAID không có khả năng trực tiếp gây ra máu trong nước và ifosfamide Đây là những loại thuốc hóa trị có thể gây viêm bàng quang xuất huyết, biểu hiện là sự xuất hiện đột ngột của máu trong nước tiểu, kích thích hệ tiết niệu và đau bàng Sử dụng lâu dài thuốc nhuận tràng này có thể dẫn đến tiểu máu. Một số loại thuốc có thể gây ảnh hưởng đến chức năng của thận Nếu nghi ngờ rằng máu trong nước tiểu là do sử dụng thuốc, bệnh nhân cần tham khảo ý kiến bác sĩ về việc thay đổi một loại thuốc khác hoặc làm giảm tác dụng phụ của Ung thư tuyến tiền liệtUng thư tuyến tiền liệt nếu được chẩn đoán và điều trị sớm thường có thể được chữa khỏi. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu của bệnh thường rất ít xuất hiện những triệu chứng. Những triệu chứng của ung thư tuyến tiền liệt thường giống với các triệu chứng của u xơ tuyến tiền máu trong nước tiểu thì ung thư tuyến tiền liệt có những triệu chứng khác bao gồmĐau âm ỉ ở vùng chậuĐau ở lưng dưới, hông hoặc đùi khi xuất trong tinh dịchMất cảm giác ngon miệngSụt cân không rõ nguyên Ung thư bàng quangUng thư bàng quang có dấu hiệu như sụt cân không rõ nguyên nhân, cùng với sự thay đổi màu sắc của nước tiểu và thói quen đi tiểu. Trong giai đoạn đầu của ung thư bàng quang thường không xuất hiện triệu chứng điển hình. Máu trong nước tiểu là dấu hiệu sớm nhất thường bệnh nhân có thể nhận thấy được sự thay đổi của màu sắc nước tiểu. Đối với những người khác, vệt máu trong nước tiểu chỉ có thể được phát hiện khi thực hiện xét nghiệm nước tiểu. Ngoài ra ung thư bàng quang có những triệu chứng nhưTiểu thường xuyên đặc biệt là vào ban đêmKhó tiểu, dòng nước tiểu yếuĐau hoặc rát khi đi tiểu Tình trạng ung thư bàng quang 3. Điều trị máu trong nước tiểu Việc điều trị máu trong nước tiểu phụ thuộc vào nguyên nhân gây bệnh. Những phương pháp điều trị máu trong nước tiểu có thể bao gồmĐiều trị kháng sinh cho nhiễm trùngPhẫu thuật loại bỏ sỏi thậnThuốc ức chế hormone, thuốc giãn cơ và phẫu thuật để điều trị các vấn đề về tuyến tiền điều trị hoặc lọc máu cho trường hợp viêm cầu thận hoặc suy thuật, hóa trị và xạ trị nhằm ngăn ngừa sự phát triển của khối u lành tính và điều trị ung thưTóm lại, máu trong nước tiểu là một triệu chứng của một bệnh lý. Do sự bất thường của thận hoặc đường tiết niệu làm cho tế bào máu vào trong nước tiểu. Tuy máu trong nước tiểu không phải là một triệu chứng khẩn cấp, nhưng là dấu hiệu của bệnh lý nghiêm trọng. Vì vậy, khi thấy hiện tượng máu trong nước tiểu cần đến ngay cơ sở y tế để làm xét nghiệm tìm ra nguyên nhân, và có biện pháp điều trị thích hợp. Người bệnh nên đến cơ sở y tế uy tín để được điều trị kịp thời XEM THÊM Đái máu, tiểu ra máu báo hiệu điều gì? Sự khác nhau giữa đái máu vi thể và đái máu đại thể Dấu hiệu suy thận giai đoạn đầu
u máu ở môi dưới