Nhà thờ đổ có thể hiểu là nhà thờ bị bỏ hoang từ năm 1996, vốn có tiền thân là nhà thờ Trái Tim tại làng chài Xương Điền. Trước đây, làng chài Xương Điền là kết quả của công cuộc quai đê lấn biển được nhân dân Hải Hậu tiến hành từ những năm đầu thế kỷ Trải qua cả trăm năm quai đê lấn biển, người Kim Sơn đã tạo nên những bãi bồi mênh mông để trồng cói. theo tỷ lệ thích hợp, hài hoà. Hệ thống thuỷ lợi cho canh tác cây cói quan trọng không kém gì cây lúa. Cói tươi thu hoạch về được chẻ nhỏ, phơi khô và đem ra Báo Quảng Ninh dẫn lời ông Vũ Nhật Tiến, Giám đốc HTX Yên Đông (phường Yên Hải, TX Quảng Yên) cho biết: Phường Yên Hải có diện tích nuôi cua biển vào khoảng 230ha, từ những năm 1970, người dân ở đây đã bắt đầu quai đê lấn biển để nuôi trồng thuỷ sản theo phương Tuy nhiên, các dự án quai đê lấn biển của Việt Nam hiện chỉ dừng lại ở việc mở mang đất đai, chưa có các mục tiêu khác như: Kiểm soát mực nước triều, chống triều cường, tăng khả năng thoát lũ, hay dùng mặt biển làm không gian chứa nước ngọt cung cấp cho dân sinh và phát triển kinh tế ven biển. Mở đường tiến ra biển lớn Chương II : KỲ TÀI LẤN BIỂN. Nhận rồi cả họ chăm chăm Thật là đau đớn muôn phần Ước gì đổi đất chuộc thân con về. Ruột gan tan nát tứ bề Cũng đành nén hận quyết thề quai đê Ngày ngày sớm tối đi về 2. Mục đích của đề tài Mục đích của đề tài là làm cơ sở khoa học để lựa chọn phương án kết cấu hợp lý cho đê bao lấn biển Tiên Lãng tạo nền để xây dựng sân bay quốc tế Tiên Lãng với quy mô sân bay 4F (Cấp sân bay 4F: trước hết phải là cảng hàng không quốc Là một vùng đất sa bồi, Làng Kiên Hành nói riêng, xã Giao Hải nói chung có lịch sử hình thành gần 200 năm. Lịch sử Đảng bộ và nhân dân xã Giao Hải cũng như gia phả các dòng họ đều ghi khá chi tiết quá trình quai đê lấn biển, thau chua rửa mặn của cư dân nơi đây. ts4SC50. TN&MT - Gần 200 năm từ khi cụ Nguyễn Công Trứ chiêu mộ dân nghèo đắp đê, bắt đầu cuộc chiến lấn biển, khát vọng chinh phục bãi bồi ở vùng đất Kim Sơn Ninh Bình vẫn được tiếp nối bằng mồ hôi, nước mắt, thậm chí cả những phần máu thịt của những con người kiên cường ra quai đê, lấn biển… Lùi về lịch sử từ những năm 1827, nhận thấy việc khai khẩn những rẻo đất hoang màu mỡ, kết hợp quai đê lấn biển theo các cồn cát đã được pha trộn đất phù sa trải dài khắp vùng cửa các dòng sông lớn đổ ra biển là một cách xóa đói giảm nghèo khá nhanh... khi đang quai đê Tiền Hải nay thuộc Thái Bình, Doanh Điền sứ Nguyễn Công Trứ đã cho người sang Ninh Bình khảo sát thực địa, để chuẩn bị khẩn hoang sao cho xứng tầm với vùng đất giàu tiềm cửa biển ở Ninh Bình thời ấy vốn có tiếng là dữ dằn, gió to, sóng lớn. Cả một vùng bãi bồi, sình lầy, lau lách trải ra mênh mông, nên việc đi lại để quai đê đắp đường, đào sông gặp không ít khó khăn. Song nhờ tài tổ chức và vận dụng linh hoạt, sáng tạo với 63 vị chiêu mộ, thứ mộ, nhân đinh, sau hơn 1 năm, cụ Nguyễn Công Trứ đã hoàn tất việc quai đê, lấn biển Kim Sơn. Vùng bãi bồi Kim Sơn Kể từ đó đến nay, Kim Sơn trải qua thêm nhiều lần quai đê, lấn biển, chinh phục bãi bồi, xây dựng hệ thống giao thông, thủy lợi như ắp đê Bình Minh BM1 năm 1959 - 1960; đắp đê BM2 năm 1981; đắp đê BM3 năm 2008 và năm 2020 đắp đê BM4... đã tăng diện tích tự nhiên của huyện Kim Sơn lên bốn lần. Toàn huyện giờ đã có hệ thống đê quai dài hàng chục km, kiên cố che chắn sóng gió trong những ngày mưa bão. Những con đê quai bằng rọ đá, bề mặt đổ bê-tông sừng sững như bức tường thành cũng chính là giao thông huyết mạch của các xã ven biển…Mồ hôi, nước mắt, nụ cười... chinh phục biển cảLịch sử đã ghi nhận các thế hệ người dân Kim Sơn tiên phong, gắn bó với hành trình quai đê lấn biển, với biết bao mồ hôi, công sức, máu và nước mắt, đấu tranh vật lộn, vượt qua những khắc nghiệt của gió, của nước lập nên những kì tích trước thiên nhiên. Những người quai đê, lấn biển, có người thành công, có người thất bại. Và những ai không gục ngã, kiên cường đi trọn được con đường đầy thử thách này đã viết nên trang sử lấn biển đầy tự hào từ chính nghị lực và mồ hôi, nước mắt mình...Theo lời kể của người dân nơi đây, đê Bình Minh 1 được hình thành từ trước những năm 1970, hồi ấy máy móc chưa có, tất cả công việc lấn biển đều làm bằng sức người. Cả trăm lao động như bức tường thành trước sóng gió, xúc từng xẻng đất, chuyền tay nhau đổ xuống biển. Cứ hùng hục sức người đấu với biển cả. Từng hòn đất được đào lên, chuyền tay nhau ném xuống. Nhưng ác nỗi lúc đắp thủy triều cạn, sau một đêm triều vào thì sáng sau con đê mất đến bảy phần. Để đắp được một mét đê dưới bãi biển, đổ mồ hôi sôi nước mắt gấp ba, bốn lần trên đồng vẫn chưa xong. Có khi gặp bão tố dồn dập, tất cả ngậm ngùi nhìn đoạn đê mới tạm nổi lại bị sóng quật vỡ tan. Cứ thế, họ vẫn làm, làm bằng tất cả nghị lực và ý chí, con đê Bình Minh 1 cũng hình thành với chiều dài 7, năm vùng ven biển Kim Sơn lại được thiên nhiên ưu đãi, ban phát hàng trăm ha đất phù sa lấn ra biển. Ông Đoàn Quốc Trung - Phó trưởng phòng Phòng chống thiên tai, Sở NN&PTNT Ninh Bình - người đã đồng hành với hành trình quai đê đầy gian khổ ở vùng bãi bồi Kim Sơn chia sẻ, để giữ của “trời cho”, công cuộc quai đê, lấn biển tiếp tục là cuộc đấu quyết liệt với “thần” biển. Sau đê Bình Minh 1; đê Bình Minh 2 được đắp với chiều dài theo quy hoạch hiện nay là 25,2km. Đê Bình Minh 2 khớp nối với đê Bình Minh 1 tạo thành một vùng bãi bồi rộng 2000 ha trù phú thuộc địa bàn ba xã bãi ngang Kim Hải, Kim ông và Kim Trung. Đê Bình Minh IV đang trong quá trình triển khai Nhớ lại hồi quai đê Bình Minh 3, ông Trung bồi hồi, khó khăn nhất khi quai đê lấn biển là địa nền, địa chất ở các tuyến đê rất yếu. “Hồi đắp đê Bình Minh 3, tôi cùng ông chủ đơn vị thi công đê thời ấy - thường xuyên ăn ngủ lại hiện trường. Có những hôm đã đắp đê quai, bơm nước đến lại bị biển động lớn, sóng đánh đê quai vỡ sạch, nước tràn hết vào trong hồ móng, hôm sau lại phải bơm lại từ đầu”, ông Trung ông Trung, thời điểm tiến hành đắp đê Bình Minh 3 đã thuận lợi hơn rất nhiều so với trước do đã áp dụng được những công nghệ mới, tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thi công. Nếu như trước đây đất đắp đê thường chuyển từ nơi khác đến, nhưng ở môi trường biển, nước thường xuyên lên xuống, có khi đất đổ xuống lại bị nước biển xâm nhập cuốn hết ra ngoài. Do vậy đơn vị thi công đã quyết định áp dụng “bơm đất tại chỗ để đắp đê”. Đê Bình Minh 3 hoàn thành đấu nối với đê Bình Minh 2 đã khoanh vùng đất lấn biển rộng hơn ha, nay là nơi nuôi trồng thủy hải sản của bà đê Bình Minh 4 vẫn trong quá trình triển khai, hàng chục km đê từ Bình Minh 1 ra Cồn Nổi đang kiên cường chặn đứng những ngọn sóng cuồn cuộn nối tiếp nhau mùa biển động. Bên trong, các đầm tôm, ngao bình yên chờ ngày thu hoạch. Dẫn chúng tôi đi tham quan bãi đầm lấn biển của mình, một người dân đang sản xuất tại vùng bãi bồi Kim Sơn rực ánh mắt nghị lực “Mang ý chí tiếp nối người xưa mở đất, người dân Kim Sơn năng động lợi dụng thủy triều để chuyển đổi đất bãi bồi, đất trồng cói trước đây kém hiệu quả sang nuôi tôm sú, nuôi tôm thẻ chân trắng, theo hình thức quảng canh, nuôi công nghiệp và nuôi theo dự án VietGAP”.“Đổi thay” đất bồi Việc người dân mở rộng nuôi trồng thủy sản ở vùng đê Bình Minh 1,2,3 và 4 đã khiến vùng đất này trở nên sôi động với hàng nghìn hộ làm nghề và tạo việc làm cho hàng chục nghìn người lao động từ dịch vụ nghề số liệu rà soát của UBND huyện Kim Sơn, đến nay, khu vực từ đê Bình Minh 2 đến Cồn Nổi có hàng nghìn hộ dân đang sử dụng khai thác và nuôi trồng thủy sản. Trong đó, khu vực từ đê Bình Minh 2 đến đê Bình Minh 3 có gần hộ với diện tích hơn khu vực từ đê Bình Minh 3 đến Cồn Nổi với diện tích gần với các tỉnh trong khu vực, nuôi trồng thủy sản ở Kim Sơn có nhiều thuận lợi bởi nơi đây giáp với vùng nội đồng nên có thể nuôi thả thủy sản dưới nhiều hình thức. Bên cạnh đó sự đầu tư lớn trong việc quai đê lấn biển đã giúp vùng nuôi trồng thủy sản của Kim Sơn có độ an toàn cao. Nhiều dự án đã và đang được triển khai ở vùng bãi bồi Kim Sơn Ông Đinh Việt Dũng, Bí thư huyện uỷ Kim Sơn cho hay, những năm gần đây, xác định kinh tế biển đóng một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế. Nhiều dự án đã và đang triển khai như Dự án nâng cấp đê Bình Minh; dự án cơ sở hạ tầng phục vụ nuôi trồng thủy sản, hải sản theo hướng công nghiệp vùng bãi bồi ven biển, dự án đường giao thông,… qua đó tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nói chung và sản xuất, nuôi trồng, khai thác thủy, hải sản vùng bãi bồi nói riêng…Sắp tới, tỉnh Ninh Bình cũng hoàn thiện quy hoạch chi tiết cho vùng kinh tế bãi bồi Kim Sơn. Đó sẽ là cơ sở tạo ra các hành lang phát triển bằng hạ tầng giao thông, tạo khu dân cư mới. Đồng thời, mở ra cơ hội phát triển nông nghiệp công nghệ cao, công nghiệp phụ trợ… ở vùng bãi giờ về bãi bồi Kim Sơn, Ninh Bình chúng ta mới thấy cảm phục ý chí kiên cường lấn biển, mở đất đến cùng của bao thế hệ người nơi đây trước thiên nhiên khắc nghiệt và cả những “cơn sóng gió” trong lòng người. Đó là thế hệ con cháu những nông dân nghèo khổ từng theo cụ Nguyễn Công Trứ đi quai đê, lấn biển, mở mang đất mới. Và họ tiếp tục đổ mồ hôi, nước mắt theo bước chân tổ tiên mình... Danh từ bộ phận gắn vào vật, dùng để xách, mang hay đeo vào người quai túi dép đứt quai "Tròng trành như nón không quai, Như thuyền không lái như ai không chồng." Cdao Động từ đắp cho bao quanh một khu vực quai đê lấn biển Động từ vung theo hình vòng cung rồi giáng mạnh xuống quai búa tác giả Tìm thêm với NHÀ TÀI TRỢ Tag quai đê lấn biển là gìTN&MT – Gần 200 năm từ khi cụ Nguyễn Công Trứ chiêu mộ dân nghèo đắp đê, bắt đầu cuộc chiến lấn biển, khát vọng chinh phục bãi bồi ở vùng đất Kim Sơn Ninh Bình vẫn được tiếp nối bằng mồ hôi, nước mắt, thậm chí cả những phần máu thịt của những con người kiên cường ra quai đê, lấn biển…Lùi về lịch sử từ những năm 1827, nhận thấy việc khai khẩn những rẻo đất hoang màu mỡ, kết hợp quai đê lấn biển theo các cồn cát đã được pha trộn đất phù sa trải dài khắp vùng cửa các dòng sông lớn đổ ra biển là một cách xóa đói giảm nghèo khá nhanh… khi đang quai đê Tiền Hải nay thuộc Thái Bình, Doanh Điền sứ Nguyễn Công Trứ đã cho người sang Ninh Bình khảo sát thực địa, để chuẩn bị khẩn hoang sao cho xứng tầm với vùng đất giàu tiềm cửa biển ở Ninh Bình thời ấy vốn có tiếng là dữ dằn, gió to, sóng lớn. Cả một vùng bãi bồi, sình lầy, lau lách trải ra mênh mông, nên việc đi lại để quai đê đắp đường, đào sông gặp không ít khó khăn. Song nhờ tài tổ chức và vận dụng linh hoạt, sáng tạo với 63 vị chiêu mộ, thứ mộ, nhân đinh, sau hơn 1 năm, cụ Nguyễn Công Trứ đã hoàn tất việc quai đê, lấn biển Kim bãi bồi Kim SơnKể từ đó đến nay, Kim Sơn trải qua thêm nhiều lần quai đê, lấn biển, chinh phục bãi bồi, xây dựng hệ thống giao thông, thủy lợi như ắp đê Bình Minh BM1 năm 1959 – 1960; đắp đê BM2 năm 1981; đắp đê BM3 năm 2008 và năm 2020 đắp đê BM4… đã tăng diện tích tự nhiên của huyện Kim Sơn lên bốn lần. Toàn huyện giờ đã có hệ thống đê quai dài hàng chục km, kiên cố che chắn sóng gió trong những ngày mưa bão. Những con đê quai bằng rọ đá, bề mặt đổ bê-tông sừng sững như bức tường thành cũng chính là giao thông huyết mạch của các xã ven biển…Mồ hôi, nước mắt, nụ cười… chinh phục biển cảLịch sử đã ghi nhận các thế hệ người dân Kim Sơn tiên phong, gắn bó với hành trình quai đê lấn biển, với biết bao mồ hôi, công sức, máu và nước mắt, đấu tranh vật lộn, vượt qua những khắc nghiệt của gió, của nước lập nên những kì tích trước thiên nhiên. Những người quai đê, lấn biển, có người thành công, có người thất bại. Và những ai không gục ngã, kiên cường đi trọn được con đường đầy thử thách này đã viết nên trang sử lấn biển đầy tự hào từ chính nghị lực và mồ hôi, nước mắt mình…Theo lời kể của người dân nơi đây, đê Bình Minh 1 được hình thành từ trước những năm 1970, hồi ấy máy móc chưa có, tất cả công việc lấn biển đều làm bằng sức người. Cả trăm lao động như bức tường thành trước sóng gió, xúc từng xẻng đất, chuyền tay nhau đổ xuống biển. Cứ hùng hục sức người đấu với biển cả. Từng hòn đất được đào lên, chuyền tay nhau ném xuống. Nhưng ác nỗi lúc đắp thủy triều cạn, sau một đêm triều vào thì sáng sau con đê mất đến bảy phần. Để đắp được một mét đê dưới bãi biển, đổ mồ hôi sôi nước mắt gấp ba, bốn lần trên đồng vẫn chưa xong. Có khi gặp bão tố dồn dập, tất cả ngậm ngùi nhìn đoạn đê mới tạm nổi lại bị sóng quật vỡ tan. Cứ thế, họ vẫn làm, làm bằng tất cả nghị lực và ý chí, con đê Bình Minh 1 cũng hình thành với chiều dài 7, năm vùng ven biển Kim Sơn lại được thiên nhiên ưu đãi, ban phát hàng trăm ha đất phù sa lấn ra biển. Ông Đoàn Quốc Trung – Phó trưởng phòng Phòng chống thiên tai, Sở NN&PTNT Ninh Bình – người đã đồng hành với hành trình quai đê đầy gian khổ ở vùng bãi bồi Kim Sơn chia sẻ, để giữ của “trời cho”, công cuộc quai đê, lấn biển tiếp tục là cuộc đấu quyết liệt với “thần” biển. Sau đê Bình Minh 1; đê Bình Minh 2 được đắp với chiều dài theo quy hoạch hiện nay là 25,2km. Đê Bình Minh 2 khớp nối với đê Bình Minh 1 tạo thành một vùng bãi bồi rộng 2000 ha trù phú thuộc địa bàn ba xã bãi ngang Kim Hải, Kim ông và Kim Bình Minh IV đang trong quá trình triển khaiNhớ lại hồi quai đê Bình Minh 3, ông Trung bồi hồi, khó khăn nhất khi quai đê lấn biển là địa nền, địa chất ở các tuyến đê rất yếu. “Hồi đắp đê Bình Minh 3, tôi cùng ông chủ đơn vị thi công đê thời ấy – thường xuyên ăn ngủ lại hiện trường. Có những hôm đã đắp đê quai, bơm nước đến lại bị biển động lớn, sóng đánh đê quai vỡ sạch, nước tràn hết vào trong hồ móng, hôm sau lại phải bơm lại từ đầu”, ông Trung ông Trung, thời điểm tiến hành đắp đê Bình Minh 3 đã thuận lợi hơn rất nhiều so với trước do đã áp dụng được những công nghệ mới, tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thi công. Nếu như trước đây đất đắp đê thường chuyển từ nơi khác đến, nhưng ở môi trường biển, nước thường xuyên lên xuống, có khi đất đổ xuống lại bị nước biển xâm nhập cuốn hết ra ngoài. Do vậy đơn vị thi công đã quyết định áp dụng “bơm đất tại chỗ để đắp đê”. Đê Bình Minh 3 hoàn thành đấu nối với đê Bình Minh 2 đã khoanh vùng đất lấn biển rộng hơn ha, nay là nơi nuôi trồng thủy hải sản của bà đê Bình Minh 4 vẫn trong quá trình triển khai, hàng chục km đê từ Bình Minh 1 ra Cồn Nổi đang kiên cường chặn đứng những ngọn sóng cuồn cuộn nối tiếp nhau mùa biển động. Bên trong, các đầm tôm, ngao bình yên chờ ngày thu hoạch. Dẫn chúng tôi đi tham quan bãi đầm lấn biển của mình, một người dân đang sản xuất tại vùng bãi bồi Kim Sơn rực ánh mắt nghị lực “Mang ý chí tiếp nối người xưa mở đất, người dân Kim Sơn năng động lợi dụng thủy triều để chuyển đổi đất bãi bồi, đất trồng cói trước đây kém hiệu quả sang nuôi tôm sú, nuôi tôm thẻ chân trắng, theo hình thức quảng canh, nuôi công nghiệp và nuôi theo dự án VietGAP”.“Đổi thay” đất bồi Việc người dân mở rộng nuôi trồng thủy sản ở vùng đê Bình Minh 1,2,3 và 4 đã khiến vùng đất này trở nên sôi động với hàng nghìn hộ làm nghề và tạo việc làm cho hàng chục nghìn người lao động từ dịch vụ nghề số liệu rà soát của UBND huyện Kim Sơn, đến nay, khu vực từ đê Bình Minh 2 đến Cồn Nổi có hàng nghìn hộ dân đang sử dụng khai thác và nuôi trồng thủy sản. Trong đó, khu vực từ đê Bình Minh 2 đến đê Bình Minh 3 có gần hộ với diện tích hơn khu vực từ đê Bình Minh 3 đến Cồn Nổi với diện tích gần với các tỉnh trong khu vực, nuôi trồng thủy sản ở Kim Sơn có nhiều thuận lợi bởi nơi đây giáp với vùng nội đồng nên có thể nuôi thả thủy sản dưới nhiều hình thức. Bên cạnh đó sự đầu tư lớn trong việc quai đê lấn biển đã giúp vùng nuôi trồng thủy sản của Kim Sơn có độ an toàn dự án đã và đang được triển khai ở vùng bãi bồi Kim SơnÔng Đinh Việt Dũng, Bí thư huyện uỷ Kim Sơn cho hay, những năm gần đây, xác định kinh tế biển đóng một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế. Nhiều dự án đã và đang triển khai như Dự án nâng cấp đê Bình Minh; dự án cơ sở hạ tầng phục vụ nuôi trồng thủy sản, hải sản theo hướng công nghiệp vùng bãi bồi ven biển, dự án đường giao thông,… qua đó tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội nói chung và sản xuất, nuôi trồng, khai thác thủy, hải sản vùng bãi bồi nói riêng…Sắp tới, tỉnh Ninh Bình cũng hoàn thiện quy hoạch chi tiết cho vùng kinh tế bãi bồi Kim Sơn. Đó sẽ là cơ sở tạo ra các hành lang phát triển bằng hạ tầng giao thông, tạo khu dân cư mới. Đồng thời, mở ra cơ hội phát triển nông nghiệp công nghệ cao, công nghiệp phụ trợ… ở vùng bãi giờ về bãi bồi Kim Sơn, Ninh Bình chúng ta mới thấy cảm phục ý chí kiên cường lấn biển, mở đất đến cùng của bao thế hệ người nơi đây trước thiên nhiên khắc nghiệt và cả những “cơn sóng gió” trong lòng người. Đó là thế hệ con cháu những nông dân nghèo khổ từng theo cụ Nguyễn Công Trứ đi quai đê, lấn biển, mở mang đất mới. Và họ tiếp tục đổ mồ hôi, nước mắt theo bước chân tổ tiên mình…Tag quai đê lấn biển là gì Hỏi đáp - Tags quai đê lấn biển là gìĐàn Ông Thích Phụ Nữ Hôn Ở Đâu? Bí Kíp Hôn Khiến Chàng Đê MêDải Hội Tụ Nhiệt Đới Là Gì? Việt Nam Có Chịu Ảnh Hưởng Của Dải Hội Tụ Nhiệt Đới Hay Không?Địa Điểm Hẹn Hò Hôn Nhau Kín Đáo Ở Sài Gòn Cho Cặp ĐôiKhông Gian Ba Chiều Là Gì? Tìm Hiểu Về Không Gian Ba Chiều Là Gì?TRẠM Y TẾ PHƯỜNG NGUYỄN CƯ TRINHChơi Gì Ở Hà Nội 15 Địa Điểm Vui Chơi Không Thể Bỏ QuaGiao Thoa Sóng Là Gì? Bài Tập Giao Thoa Sóng Bên đê lấn biển Theo chân người mở đất Kỳ 5 Từ công cuộc khẩn hoang của Doanh Điền Sứ Nguyễn Công Trứ 1829, đến nay đã 7 lần quai đê lấn biển, thau chua rửa mặn, đào vuông ao... Như một vết lăn dài ra biển, người khai hoang mang những nét hoang sơ. Không nhiều huyện biển như Thanh Hoá, Hải Phòng, Quảng Ninh... tỉnh Ninh Bình chỉ có Kim Sơn. Từ công cuộc khẩn hoang của Doanh Điền Sứ Nguyễn Công Trứ 1829, đến nay đã 7 lần quai đê lấn biển, thau chua rửa mặn, đào vuông ao... Như một vết lăn dài ra biển, người khai hoang mang những nét hoang sơ. Bên đê lấn biển Chạy biển Kỳ 4 Bên đê lấn biển Phận người nơi đầu sóng Kỳ 3 Bên đê lấn biển Nỗi niềm Tiên Lãng Kỳ 2 Bên đê lấn biển Thi gan cùng sóng dữ Kỳ 1 "Tép tôm ai nỡ dứt tình" Cồn Thoi trước kia chỉ là nhô đất mới cách thị trấn Kim Sơn 18 km. Bây giờ nền vững, đất liền không nhận ra dấu xưa như tên gọi. Cũng như huyện lỵ Kim Sơn, thị trấn Phát Diệm tàu thuyền cập bến, nay đi mãi mới ra đến biển. Sau giải phóng miền Nam 1975, tỉnh Hà Nam Ninh cũ có chính sách đưa dân đi khai hoang, mở những nông trường. Bình Minh - tên gọi tiền đề cho việc mở đất tại huyện Kim Sơn trong thời kỳ mới. Hơn ba mươi năm, một thế hệ vừa lớn thì nông trường cũng nhân lên tên gọi Bình Minh 1, Bình Minh 2, Bình Minh 3. Nông trường Bình Minh, cồn bãi Cồn Thoi thành thị trấn. Và các xã lân cận Kim Tân, Kim Đông, Kim Mỹ... đều có câu trả lời "đây ven biển". Thế nhưng "bản quyền" ven biển đã thuộc về hai xã Kim Hải, Kim Trung. Nhưng nay, người hai xã này còn chạy mệt mới ra đến mép biển. Mỗi năm biển giật lùi từ 80 đến 100 mét, bồi đắp từ 2 đến 3 cây số vuông. Đất hoang vẫy gọi sức người. Người đến, lán cỏ mọc lên trên đồng cỏ, soi bóng ao chuôm. Trong mênh mông không thấy bóng người, cảnh đìu hiu, cỏ lác. Nhìn cảnh, nhớ thơ của quan Doanh Điền "Nghĩa tép tôm ai nỡ dứt tình/ Ơn thuỷ thổ phải đền cho vẹn sóng!"... 182 năm trước, Nguyễn Công Trứ đã chiêu mộ dân lưu vong tụ về quai đê lấn biển và đặt tên huyện Kim Sơn. Nay diện tích đất của huyện tăng gấp 3 lần, bộ phận dân cư sầm uất lại hình thành thị trấn, thị tứ mới. Bảy lần đắp đê, ba lần kiên cố đê bê - tông. Đê thành đường giao thông, như cánh cung lớn. Biển Ninh Bình như chàng trai tuổi 18 ưỡn mình vươn ra sóng. Sức sống của dân nơi đây hoang dại, trẻ trung. Tìm về chân đê Hai năm trước, Nguyễn Văn Công xóm 5, xã Kim Chung mười bảy tuổi. Công cất tôm nhà, bán cho đại lý thu mua hải sản được 400 nghìn, nhét vội bộ quần áo vào túi, bắt chuyến xe lên Hà Nội. Mười ngày lang thang trong thành phố kiếm việc, tối về bến xe Giáp Bát. Vỉa hè, ghế phòng chờ mua vé thành giường. Giấc ngủ khi ngoẹo đầu, lúc co chân. Đêm nào "sang" lắm thì vào phòng trọ 10 nghìn đồng. Ngày vật vờ phố, tới bữa lại điệp khúc bún đậu, bánh mỳ. Không kiếm được việc, suốt thời gian ấy Công chỉ được ăn ba bữa cơm bèo bọt. Tiền hết, bụng lép. Hai ngày cuối ngồi vạ bến xe, gặp được người quen cùng quê, Công vay tiền mua vé, chào Hà Nội! Gặp Công trên đê, Công kể về đoạn đời lang thang của mình với vẻ chân tình, hoảng hốt. Cậu lắc đầu "Hà Nội vui. Người xe đông đúc. Nhưng chả kiếm nổi việc ra hồn. Nào xách vữa, khuân gạch, rửa bát..., chán quá!". Nay về biển, "tổng quản" đàn ngưu chín con. Hỏi sao không coi đồng tôm hay đuổi vịt, Công bảo bố mẹ em sợ dốc đồng, bán đàn ôm tiền lên phố. Cậu khoe, thêm tuổi nữa là cậu được xã cấp giấy kết hôn. Có vợ là được chia đồng, được tính toán làm ăn nên từ bỏ ý định lên phố. Đê 3 khánh thành năm 2010, đánh dấu mốc quản lý hành chính của xã đến chân đê. Ngoài đê, đất hoang, ruộng mới, người của tỉnh, huyện tràn xuống, người nơi khác "dạt" về... Nói chung là "no mặt đủ đòn" hội tụ. Ao đầm ngoài đê do huyện quản lý. Cửa sông, đồng bãi mênh mông nhưng muốn ở yên đương nhiên phải làm... luật! Đi 15 km đê chỉ thấy mênh mông cỏ lác, chỗ "bừng sáng" nhất con đê cũng là nơi gặp gỡ của nhiều người trong đồng ngoài bãi quán thịt chó Thành Hương. Chủ quán cũng "khôn", đặt "trụ sở" nằm ngoài đê 3, vùng không thuộc quyền quản lý của xã. Quán tuềnh toàng sạp tre, mái lợp tấm phi- brô xi-măng, quán thịt chó nhưng hỏi gì cũng có. Từ nước giải khát, trứng vịt "nộn" nguyên văn trên biển quảng cáo đến bún mọc, bánh cuốn chả... Ở nơi đồng không mông quạnh này tưởng quán hàng sẽ hút khách. Thế nhưng từ 9 giờ sáng đến 3 giờ chiều vẫn chỉ có hai gã "lèm bèm". Rượu Kim Sơn khiến khách quên đồng, bỏ lán. Nhân thân chủ quán Thành Hương cũng là người nơi khác về đây kinh doanh, cánh đồng hoang gặp mùa gió chướng! Chiều sầm sập xuống, hai vị khách ngà ngà say hò ơ câu hát "Em chê thuyền thúng không đi/ Em đi thuyền ván lắm khi gập ghềnh". Sông Cà Mau- tên sông như nhắc đến vùng đất Mũi miền Tây Nam bộ. Nhưng sông này là sông của Kim Sơn. Sông chảy nối những bãi bồi, cồn ngang rồi đổ ra biển. Đất Kim Sơn như xứ sở lạ, những loài chim quý kéo đàn về đây. Rợp trời chiều là cò thìa, cò trắng phương Bắc, mòng bể, rẽ mỏ thìa bay lượn. Rừng ngập mặn như một vườn ươm cho sự sống của biển, nơi nuôi dưỡng các loài hải sản. Đất lành chim về, nước trong cá đến, người cũng theo nhau dựng lán, mở đồng. Ngời về đồng... lúa Huyện Kim Sơn có 18 km bờ biển. Huyện do quan Doanh Điền Sứ Nguyễn Công Trứ lập năm Kỷ Tỵ 1829. Ngày đó, huyện có mẫu ruộng, 7 tổng, dân đinh, cư trú trong 60 lý, ấp, trại, giáp. Đến nay, sau 182 năm với 7 lần quai đê, lấn biển, huyện Kim Sơn đã có 25 xã và 3 thị trấn với diện tích 213,3km². Cũng như Kim Sơn Ninh Bình quan điền sứ đã lập huyện Tiền Hải Thái Bình- tên hai huyện này do ông đặt, một là núi vàng Kim Sơn, một là biển bạc Tiền Hải. Công lao của Nguyễn Công Trứ với nhân dân huyện Kim Sơn, Tiền Hải là rất lớn, ngay từ lúc ông còn sống họ đã lập đền thờ thờ ông. Sông Đáy, sông Càn chảy theo chiều dài của huyện Kim Sơn. Sông Càn phân cách Kim Sơn với Nga Sơn Thánh Hóa, sông Đáy tách Kim Sơn với Nghĩa Hưng Nam Định. Hai dòng sông, hai cửa sông bồi đắp phù sa. Sông Đáy chảy mạnh nên phù sa bồi nhiều bên biển Kim Trung. Sông Càn nhỏ, cửa Tống khiêm nhường nên bên Kim Hải bãi lép. Những năm trước đê 3 chưa đắp, bãi bồi chưa nhiều, mỗi mùa bão đến dân xã Kim Hải vật lộn với gió. Trận bão năm 1996, đê vỡ, nước tràn vào xóm thôn, chết 45 người. Chưa đầy mười năm sau trận bão ào ạt đánh đê Kim Hải, làng thôn mái tung trong gió. Sau trận bão ấy nhà nước có quyết định đắp đê 3. Thồ mạ ra đồng, ông Đoàn Hải Lưu xóm 12, xã Kim Tân kể trước kia, đây là đồng cói mênh mông nay thành đồng lúa. Chúng tôi thắc mắc. Kim Sơn có bảy làng nghề làm cói của huyện được xếp vào làng nghề cấp quốc gia, sao không trồng cói bán nguyên liệu cho làng nghề, lại chuyển sang trồng lúa? Ông Lưu phân trần "Đất Kim Sơn lúa tốt lắm, năng suất tương đương với Hải Hậu Nam Định, Thái Bình. Đất trồng cói, đất chua. Trồng cói mấy năm khi độ chua hết phải chuyển sang trồng lúa". Vậy là đất bồi bồi mãi rồi cũng đổi thay, khi cói ngắn, lá nhỏ năng suất thấp lại là lúc ruộng cho bông nặng, hạt vàng. Một cái kết có hậu với nông dân khi ruộng mất chua, đồng chuyển ngọt. Trở lại ven đê 3 gặp bí thư xã Kim Đông Nguyễn Văn Hải, ông kể về cái tên của mình. Trước kia bố mẹ ông sinh cơ lập nghiệp ven biển nên đặt tên ông là Hải. Người con của biển nên cũng cởi mở như biển. "Khi chưa có đê, mỗi mùa bão về vẫn phải lo, phải trực. Nay bãi ngang mở rộng, cồn dọc vươn ra, đê đã bê tông hóa. Bão cấp 12 cũng yên tâm ngủ". Những ngày giữa tháng 3, trận động đất sóng thần bên Nhật Bản cướp đi sinh mệnh bao người, chốc lát phá tan thành phố. Điện thoại về Kim Sơn hỏi có sợ sóng thần không? Ông Hải nói "Không, có gì mà sợ. Biển Kim Sơn có rừng phòng hộ, nhiều cù lao, cồn nổi... Sóng đánh vào, sóng lại phải ra khơi!". Theo Ninh Nguyễn- Trần Khánh/ Tạp chí Thời Nay báo Nhân dân Lùi về lịch sử từ những năm 1827, nhận thấy việc khai khẩn những rẻo đất hoang màu mỡ, kết hợp quai đê lấn biển theo các cồn cát đã được pha trộn đất phù sa trải dài khắp vùng cửa các dòng sông lớn đổ ra biển là một cách xóa đói giảm nghèo khá nhanh… khi đang quai đê Tiền Hải nay thuộc Thái Bình, Doanh Điền sứ Nguyễn Công Trứ đã cho người sang Ninh Bình khảo sát thực địa, để chuẩn bị khẩn hoang sao cho xứng tầm với vùng đất giàu tiềm năng. Vùng cửa biển ở Ninh Bình thời ấy vốn có tiếng là dữ dằn, gió to, sóng lớn. Cả một vùng bãi bồi, sình lầy, lau lách trải ra mênh mông, nên việc đi lại để quai đê đắp đường, đào sông gặp không ít khó khăn. Song nhờ tài tổ chức và vận dụng linh hoạt, sáng tạo với 63 vị chiêu mộ, thứ mộ, nhân đinh, sau hơn 1 năm, cụ Nguyễn Công Trứ đã hoàn tất việc quai đê, lấn biển Kim Sơn. Vùng bãi bồi Kim Sơn Kể từ đó đến nay, Kim Sơn trải qua thêm nhiều lần quai đê, lấn biển, chinh phục bãi bồi, xây dựng hệ thống giao thông, thủy lợi như ắp đê Bình Minh BM1 năm 1959 – 1960; đắp đê BM2 năm 1981; đắp đê BM3 năm 2008 và năm 2020 đắp đê BM4… đã tăng diện tích tự nhiên của huyện Kim Sơn lên bốn lần. Toàn huyện giờ đã có hệ thống đê quai dài hàng chục km, kiên cố che chắn sóng gió trong những ngày mưa bão. Những con đê quai bằng rọ đá, bề mặt đổ bê-tông sừng sững như bức tường thành cũng chính là giao thông huyết mạch của các xã ven biển… Mồ hôi, nước mắt, nụ cười… chinh phục biển cả Lịch sử đã ghi nhận các thế hệ người dân Kim Sơn tiên phong, gắn bó với hành trình quai đê lấn biển, với biết bao mồ hôi, công sức, máu và nước mắt, đấu tranh vật lộn, vượt qua những khắc nghiệt của gió, của nước lập nên những kì tích trước thiên nhiên. Những người quai đê, lấn biển, có người thành công, có người thất bại. Và những ai không gục ngã, kiên cường đi trọn được con đường đầy thử thách này đã viết nên trang sử lấn biển đầy tự hào từ chính nghị lực và mồ hôi, nước mắt mình… Theo lời kể của người dân nơi đây, đê Bình Minh 1 được hình thành từ trước những năm 1970, hồi ấy máy móc chưa có, tất cả công việc lấn biển đều làm bằng sức người. Cả trăm lao động như bức tường thành trước sóng gió, xúc từng xẻng đất, chuyền tay nhau đổ xuống biển. Cứ hùng hục sức người đấu với biển cả. Từng hòn đất được đào lên, chuyền tay nhau ném xuống. Nhưng ác nỗi lúc đắp thủy triều cạn, sau một đêm triều vào thì sáng sau con đê mất đến bảy phần. Để đắp được một mét đê dưới bãi biển, đổ mồ hôi sôi nước mắt gấp ba, bốn lần trên đồng vẫn chưa xong. Có khi gặp bão tố dồn dập, tất cả ngậm ngùi nhìn đoạn đê mới tạm nổi lại bị sóng quật vỡ tan. Cứ thế, họ vẫn làm, làm bằng tất cả nghị lực và ý chí, con đê Bình Minh 1 cũng hình thành với chiều dài 7,5km. Mỗi năm vùng ven biển Kim Sơn lại được thiên nhiên ưu đãi, ban phát hàng trăm ha đất phù sa lấn ra biển. Ông Đoàn Quốc Trung – Phó trưởng phòng Phòng chống thiên tai, Sở NN&PTNT Ninh Bình – người đã đồng hành với hành trình quai đê đầy gian khổ ở vùng bãi bồi Kim Sơn chia sẻ, để giữ của “trời cho”, công cuộc quai đê, lấn biển tiếp tục là cuộc đấu quyết liệt với “thần” biển. Sau đê Bình Minh 1; đê Bình Minh 2 được đắp với chiều dài theo quy hoạch hiện nay là 25,2km. Đê Bình Minh 2 khớp nối với đê Bình Minh 1 tạo thành một vùng bãi bồi rộng 2000 ha trù phú thuộc địa bàn ba xã bãi ngang Kim Hải, Kim ông và Kim Trung. Đê Bình Minh IV đang trong quá trình triển khai Nhớ lại hồi quai đê Bình Minh 3, ông Trung bồi hồi, khó khăn nhất khi quai đê lấn biển là địa nền, địa chất ở các tuyến đê rất yếu. “Hồi đắp đê Bình Minh 3, tôi cùng ông chủ đơn vị thi công đê thời ấy – thường xuyên ăn ngủ lại hiện trường. Có những hôm đã đắp đê quai, bơm nước đến lại bị biển động lớn, sóng đánh đê quai vỡ sạch, nước tràn hết vào trong hồ móng, hôm sau lại phải bơm lại từ đầu”, ông Trung kể. Theo ông Trung, thời điểm tiến hành đắp đê Bình Minh 3 đã thuận lợi hơn rất nhiều so với trước do đã áp dụng được những công nghệ mới, tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thi công. Nếu như trước đây đất đắp đê thường chuyển từ nơi khác đến, nhưng ở môi trường biển, nước thường xuyên lên xuống, có khi đất đổ xuống lại bị nước biển xâm nhập cuốn hết ra ngoài. Do vậy đơn vị thi công đã quyết định áp dụng “bơm đất tại chỗ để đắp đê”. Đê Bình Minh 3 hoàn thành đấu nối với đê Bình Minh 2 đã khoanh vùng đất lấn biển rộng hơn ha, nay là nơi nuôi trồng thủy hải sản của bà con. Hiện đê Bình Minh 4 vẫn trong quá trình triển khai, hàng chục km đê từ Bình Minh 1 ra Cồn Nổi đang kiên cường chặn đứng những ngọn sóng cuồn cuộn nối tiếp nhau mùa biển động. Bên trong, các đầm tôm, ngao bình yên chờ ngày thu hoạch. Dẫn chúng tôi đi tham quan bãi đầm lấn biển của mình, một người dân đang sản xuất tại vùng bãi bồi Kim Sơn rực ánh mắt nghị lực “Mang ý chí tiếp nối người xưa mở đất, người dân Kim Sơn năng động lợi dụng thủy triều để chuyển đổi đất bãi bồi, đất trồng cói trước đây kém hiệu quả sang nuôi tôm sú, nuôi tôm thẻ chân trắng, theo hình thức quảng canh, nuôi công nghiệp và nuôi theo dự án VietGAP”. “Đổi thay” đất bồi Việc người dân mở rộng nuôi trồng thủy sản ở vùng đê Bình Minh 1,2,3 và 4 đã khiến vùng đất này trở nên sôi động với hàng nghìn hộ làm nghề và tạo việc làm cho hàng chục nghìn người lao động từ dịch vụ nghề cá. Theo số liệu rà soát của UBND huyện Kim Sơn, đến nay, khu vực từ đê Bình Minh 2 đến Cồn Nổi có hàng nghìn hộ dân đang sử dụng khai thác và nuôi trồng thủy sản. Trong đó, khu vực từ đê Bình Minh 2 đến đê Bình Minh 3 có gần hộ với diện tích hơn khu vực từ đê Bình Minh 3 đến Cồn Nổi với diện tích gần ha. So với các tỉnh trong khu vực, nuôi trồng thủy sản ở Kim Sơn có nhiều thuận lợi bởi nơi đây giáp với vùng nội đồng nên có thể nuôi thả thủy sản dưới nhiều hình thức. Bên cạnh đó sự đầu tư lớn trong việc quai đê lấn biển đã giúp vùng nuôi trồng thủy sản của Kim Sơn có độ an toàn cao. Nhiều dự án đã và đang được triển khai ở vùng bãi bồi Kim Sơn Ông Đinh Việt Dũng, Bí thư huyện uỷ Kim Sơn cho hay, những năm gần đây, xác định kinh tế biển đóng một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế. Nhiều dự án đã và đang triển khai như Dự án nâng cấp đê Bình Minh; dự án cơ sở hạ tầng phục vụ nuôi trồng thủy sản, hải sản theo hướng công nghiệp vùng bãi bồi ven biển, dự án đường giao thông,… qua đó tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội nói chung và sản xuất, nuôi trồng, khai thác thủy, hải sản vùng bãi bồi nói riêng… Sắp tới, tỉnh Ninh Bình cũng hoàn thiện quy hoạch chi tiết cho vùng kinh tế bãi bồi Kim Sơn. Đó sẽ là cơ sở tạo ra các hành lang phát triển bằng hạ tầng giao thông, tạo khu dân cư mới. Đồng thời, mở ra cơ hội phát triển nông nghiệp công nghệ cao, công nghiệp phụ trợ… ở vùng bãi bồi. Bây giờ về bãi bồi Kim Sơn, Ninh Bình chúng ta mới thấy cảm phục ý chí kiên cường lấn biển, mở đất đến cùng của bao thế hệ người nơi đây trước thiên nhiên khắc nghiệt và cả những “cơn sóng gió” trong lòng người. Đó là thế hệ con cháu những nông dân nghèo khổ từng theo cụ Nguyễn Công Trứ đi quai đê, lấn biển, mở mang đất mới. Và họ tiếp tục đổ mồ hôi, nước mắt theo bước chân tổ tiên mình…

quai đê lấn biển là gì